Trước đó, viện dẫn tại dự thảo luật, Tổ chức công đoàn cho biết đơn vị này đề xuất Kế thừa và giữ nguyên đối tượng nộp và mức đóng 2% kinh phí công đoàn theo quy định hiện hành tại điểm b khoản 1 Điều 29. Đây là một mức đóng đã được áp dụng từ năm 1957, nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho tổ chức công đoàn trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Đơn vị này cho biết, nguồn kinh phí công đoàn này chủ yếu để chăm lo cho người lao động vì số tiền được tập trung cho công đoàn cơ sở (chiếm gần 75%) để chăm lo tốt hơn phúc lợi cho người lao động. Trong đó, chi cho phúc lợi, đại diện, chăm lo, đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng cho đoàn viên và người lao động chiếm hơn 84% tổng số chi.
Về bản chất, nguồn thu kinh phí 2% là đóng góp của đơn vị sử dụng lao động cho tổ chức và hoạt động của công đoàn nhằm bảo đảm cho công đoàn thực hiện tốt trách nhiệm chăm lo cho người lao động, đồng thời cũng để đảm bảo vai trò của công đoàn trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Như vậy, nguồn kinh phí công đoàn được sử dụng mang lại lợi ích cho cả người lao động và người sử dụng lao động, thúc đẩy xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Với mức lương bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội khoảng 5,7 triệu đồng/tháng, trong một năm doanh nghiệp đóng khoảng 1,4 triệu đồng cho kinh phí công đoàn. Phần lớn số tiền này (khoảng 1 triệu đồng) được sử dụng trực tiếp tại công đoàn cơ sở.
Cũng theo Tổng Liên đoàn thì mức đóng 2% vẫn nằm trong phạm vi chấp nhận được đối với sức chịu đựng của các tổ chức, doanh nghiệp.
Việc giữ nguyên mức đóng này đã tạo ra nhiều ý kiến tranh luận trong thời gian qua. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khẳng định, tỷ lệ 2% là phù hợp với thực tế và đóng góp vào việc bảo đảm phúc lợi ổn định cho người lao động.
Nhiều nội dung mới trong Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi)
Bên cạnh đó, dự thảo cũng bổ sung các quy định về miễn, giảm và tạm dừng đóng kinh phí công đoàn trong các trường hợp doanh nghiệp giải thể, phá sản, hoặc gặp khó khăn về kinh tế. Những quy định này nhằm giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn, nhưng vẫn đảm bảo được sự đồng hành của công đoàn trong việc chăm lo cho người lao động. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động, doanh nghiệp đôi khi phải tạm dừng hoạt động hoặc điều chỉnh lại quy mô sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh nội dung về tài chính công đoàn, Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi) cũng đề cập tới các vấn đề sử dụng tài chính công đoàn, dự thảo Luật Công đoàn sửa đổi đã bổ sung các quy định mới về kiểm tra, thanh tra, và kiểm toán công đoàn nhằm tăng cường giám sát của các cơ quan chức năng, đảm bảo việc sử dụng kinh phí công đoàn được thực hiện một cách minh bạch và hiệu quả.
Đặc biệt, Điều 34 bổ sung một quy định hoàn toàn mới về việc công khai tài chính công đoàn, đảm bảo rằng mọi hoạt động liên quan đến tài chính đều được kiểm tra và công khai định kỳ, giúp tăng cường lòng tin của đoàn viên và người lao động đối với tổ chức công đoàn.
Về vấn đề này, ông Ngọ Duy Hiểu cũng cho biết, quy định định kỳ 2 năm, Công đoàn phải báo cáo với quốc hội về công khai tài chính công đoàn.
Ông Hiểu khẳng định: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, dự thảo Luật Công đoàn sửa đổi được xem là cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người lao động Việt Nam, mà còn góp phần giúp Công đoàn Việt Nam phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh quốc tế, trong bối cảnh các tổ chức đại diện người lao động không thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam cũng đang manh nha xuất hiện.
Dự thảo luật này dự kiến sẽ được Quốc hội xem xét và thông qua tại kỳ họp thứ 8, diễn ra trong tháng 10 và 11/2024.