Bộ Nội vụ nói về thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng IV
Bộ Nội vụ phản hồi thắc mắc bạn đọc về việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng IV.
UBND tỉnh tổ chức hoặc phân cấp, ủy quyền tổ chức xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I trở xuống đối với viên chức thuộc phạm vi quản lý. Ảnh minh họa: Hương Nha
Ngày 15.4.2008, ông Ngô Hồng Hải (tên nhân vật được thay đổi) nhận quyết định của Sở Nội vụ nêu rõ ông là viên chức loại B.
Do nhiệm vụ công việc chung của địa phương, ngày 5.6.2008, ông Hải được điều động từ đơn vị sự nghiệp công lập đến nhận công tác ở cơ quan hành chính.
Song, tại cơ quan này, ông không được tiếp tục ký hợp đồng do thiếu điều kiện về bằng cấp (trình độ chuyên môn trung cấp).
Từ năm 2011 đến 2014, ông đã đi học và hoàn thiện trình độ chuyên môn lên Đại học. Đến tháng 12.2020, ông được tuyển dụng viên chức theo Kết luận 71-KL/TW và hướng dẫn số 2965/HD-BNV.
Theo ông Hải, trong quá trình công tác, ông luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và hoàn thiện bằng Đại học cùng các văn bằng chứng chỉ.
Tuy nhiên, ông vẫn là viên chức hạng IV và tính đến ngày 23.2.2025, địa phương vẫn chưa tổ chức thăng hạng cho ông.
"Là một người với bao tâm huyết về chuyên môn, công tác ở vùng sâu, xa, vùng biên giới vì thế tôi cảm thấy quá thiệt thòi cho bản thân. Vậy tôi xin hỏi địa phương vẫn không thăng hạng cho tôi thì tôi phải làm thế nào?
Sau này tôi có được thăng hạng thì việc thăng hạng muộn và không kịp thời cho tôi thì ai là người chịu trách nhiệm và chế độ thăng hạng của tôi được áp dụng từ thời điểm nào?" - ông Hải thắc mắc.
Liên quan đến phản ánh, kiến nghị của ông Hải, Bộ Nội vụ đã có phản hồi trên Cổng thông tin điện tử.
Theo Bộ Nội vụ, căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 65 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung tại khoản 36 Điều 1 Nghị định số 85/2023/NĐ-CP) thì UBND cấp tỉnh tổ chức hoặc phân cấp, ủy quyền tổ chức xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I trở xuống đối với viên chức thuộc phạm vi quản lý.
Theo đó, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định này hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định này hoặc người đứng đầu cơ quan, đơn vị được phân cấp, ủy quyền xây dựng kế hoạch tuyển dụng, quyết định theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan quản lý viên chức phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng trước mỗi kỳ tuyển dụng.
Nội dung kế hoạch tuyển dụng bao gồm:
Số lượng người làm việc được giao và số lượng người làm việc chưa sử dụng của đơn vị sự nghiệp công lập;
Số lượng người cần tuyển ở từng vị trí việc làm, trong đó xác định các vị trí việc làm thí sinh được đăng ký 2 nguyện vọng. Các vị trí việc làm thí sinh được đăng ký 2 nguyện vọng phải có tiêu chuẩn, điều kiện giống nhau, cùng Hội đồng thi, áp dụng hình thức thi viết (vòng 2) và chung đề thi;
Số lượng vị trí việc làm cần tuyển đối với người dân tộc thiểu số (nếu có), trong đó xác định rõ chỉ tiêu, cơ cấu dân tộc cần tuyển;
Tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự tuyển ở từng vị trí việc làm...
Đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định này xây dựng và quyết định kế hoạch tuyển dụng theo quy định tại khoản này mà không phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập phê duyệt.
Vì vậy, Bộ Nội vụ đề nghị ông trao đổi với cơ quan quản lý viên chức nơi công tác để được hướng dẫn, giải quyết theo thẩm quyền.
https://laodong.vn/thoi-su/bo-noi-vu-noi-ve-thang-hang-chuc-danh-nghe-nghiep-hang-iv-1479212.ldo
HƯƠNG NHA (BÁO LAO ĐỘNG)