Thời sự
Cập nhật lúc 05:04 26/06/2025 (GMT+7)
Đề xuất trao quyền cho Chủ tịch nước có thể ban bố tình trạng khẩn cấp

Ngày 26.6, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp.

Đề xuất trao quyền cho Chủ tịch nước có thể ban bố tình trạng khẩn cấp
Đại biểu Quốc hội Tô Văn Tám (Kon Tum) phát biểu về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Ảnh: Phạm Đông

Đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Đắk Nông) cho rằng, thực tế ứng phó với đại dịch COVID-19 vừa qua cho thấy, có những trường hợp để bảo đảm ứng phó với các tình huống nguy hiểm đe dọa sức khỏe, tính mạng của người dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội cần thực hiện những biện pháp như trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp.

Mặt khác, qua rà soát cho thấy, Luật An ninh quốc gia cũng có quy định về việc áp dụng một số biện pháp cần thiết khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp.

Đại biểu Dương Khắc Mai đề nghị, cân nhắc bổ sung quy định về việc cho phép Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh được áp dụng một số biện pháp cần thiết được quy định trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp để ứng phó kịp thời những tình huống nguy hiểm, cấp thiết, hạn chế khả năng phải ban bố tình trạng khẩn cấp.

Đại biểu Dương Khắc Mai phát biểu. Ảnh: Phạm Đông
Đại biểu Dương Khắc Mai phát biểu. Ảnh: Phạm Đông

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại Điều 9 dự thảo Luật quy định thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố tình trạng khẩn cấp là Chủ tịch nước. Căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn Kon Tum) cho rằng, đây là hai việc khác nhau: ban bố tình trạng khẩn cấp là quyết định của cơ quan có thẩm quyền và ở đây là Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Còn công bố tình trạng khẩn cấp là việc thông báo công khai cho người dân và toàn xã hội về quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp để cơ quan tổ chức và người dân thi hành.

Trong khi đó, ở khoản 1 và khoản 4, Điều 9 quy định, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước sẽ công bố tình trạng khẩn cấp.

Nếu quy định như vậy thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp thì cũng không thể quyết định được ban bố tình trạng khẩn cấp. Và nếu không có quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp thì không có căn cứ để Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp.

Do vậy, đại biểu Tô Văn Tám đề nghị, cần chỉnh lý lại theo hướng trong tình trạng Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp và công bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ nhằm bảo đảm tính phù hợp với thực tế.

Cùng quan điểm trên, đại biểu Lê Xuân Thân (Đoàn Khánh Hòa) đề nghị, quy định lại Điều 9 thành 2 khoản rõ ràng.

Trong đó, Khoản 1 là quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp như Hiến pháp 2013; đồng thời, quy định về thủ tục trình tự để làm căn cứ dựa vào ý kiến của cơ quan có thẩm quyền thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp.

Khoản 2 quy định về Chủ tịch nước, nếu như Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp và có Nghị quyết thì Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp; nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì Chủ tịch nước chủ động công bố tình trạng khẩn cấp.

https://laodong.vn/thoi-su/de-xuat-trao-quyen-cho-chu-tich-nuoc-co-the-ban-bo-tinh-trang-khan-cap-1529978.ldo

PHẠM ĐÔNG (BÁO LAO ĐỘNG)

In
Về đầu
Lượt truy cập: